Giỏ hàng

STRESS TÂM LÍ

 

STRESS TÂM LÍ

1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG.

1.1. Khái niệm stress:

Do không có từ tương thích trong tiếng Việt nên thuật ngữ stress được sử dụng theo từ gốc nước ngoài.

+ Lúc đầu thuật ngữ stress được sử dụng trong Vật lí học, để chỉ sức nén mà một loại vật liệu phải chịu đựng. Đến năm 1914, Walter Cannon đã sử dụng thuật ngữ này trong Sinh lí học, để chỉ các stress cảm xúc. Năm 1935, ông đi sâu nghiên cứu sự cân bằng nội môi ở những động vật có vú khi chúng lâm vào các tình huống khó khăn, như khi gặp phải sự thay đổi về nhiệt độ. Ông cũng mô tả các nhân tố cảm xúc trong quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ thần kinh khi cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.

+ Trong Y học, từ lâu người ta đã đặt vấn đề là tại sao một số người mắc các bệnh khác nhau lại có những triệu chứng giống nhau.

+ Những nguyên nhân gây ra hiện tượng stress có thể rất khác nhau, nhưng phản ứng của cơ thể đối với chúng thì đều giống nhau. Tất cả các phản ứng này đều diễn ra theo ba giai đoạn:

- Giai đoạn đầu: con người cảm thấy có khó khăn.

- Giai đoạn hai: con người thích nghi với những khó khăn.

- Giai đoạn ba: giai đoạn cuối cùng, con người không chịu đựng được nữa.

Ba giai đoạn này giống như một qui luật chung điều hòa hành vi của mọi sinh vật khi bị rơi vào những điều kiện đặc biệt căng thẳng và giống như tiến trình của một phản ứng thích nghi không đặc hiệu của cơ thể đối với những tác động mạnh mẽ, đột ngột khác nhau của môi trường.

1.2. Các loại stress

Nhìn chung có thể chia stress thành 2 loại chính:

+ Stress sinh lí: là toàn bộ những biến đổi về sinh lí, trạng thái sinh lí của cơ thể nhằm đáp lại tác nhân gây stress, ví dụ những biến đổi về nhịp tim, nhịp thở, các thay đổi về nội tiết… 

+ Stress tâm lí: trạng thái tâm lí xuất hiện nhằm đáp ứng với tác nhân gây stress. Ví dụ: những thay đổi về trí nhớ, tập trung chú ý, các phản ứng cảm xúc…

Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lí và sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác động của môi trường. Nói cách khác, phản ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.

Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới thì những chức năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí cơ thể, tâm lí, hành vi sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.

Nhiều người cho rằng, stress là một chứng bệnh gắn liền với nền văn minh hiện đại, bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại.

1.3. Các giai đoạn của phản ứng stress.

Theo H. Selye, phản ứng stress được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn báo động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn suy kiệt.

    1.3.1. Giai đoạn báo động:

Giai đoạn này được biểu hiện bằng những biến đổi đặc trưng của chủ thể khi tiếp xúc với các yếu tố gây stress. Những biến đổi này là:

+ Các hoạt động tâm lí được kích thích, đặc biệt là tăng cường quá trình tập trung chú ý, ghi nhớ và tư duy...

+ Các phản ứng chức năng sinh lí của cơ thể được triển khai như tăng huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và tăng trương lực cơ bắp...

Những thay đổi tâm lí - sinh lí - hành vi đã giúp con người đánh giá các tình huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống đó. Giai đoạn báo động có thể diễn ra rất nhanh (vài phút) hoặc kéo dài vài giờ, vài ngày... Chủ thể có thể chết trong giai đoạn này, nếu yếu tố gây stress quá mạnh, tình huống stress quá phức tạp. Nếu tồn tại được thì các phản ứng ban đầu chuyển sang giai đoạn ổn định (hay còn gọi là giai đoạn thích nghi).

1.3.2. Giai đoạn thích nghi:

Trong giai đoạn này, mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể chống đỡ và điều hòa các rối loạn ban đầu. Sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người có thể làm chủ được tình huống stress, lập lại các trạng thái cân bằng nội môi (homeostase) và tạo ra sự cân bằng mới với môi trường. Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn chống đỡ.

Trong một tình huống stress bình thường, chủ thể đáp ứng lại bằng hai giai đoạn báo động và chống đỡ.

Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm, sinh lí cơ thể được phục hồi. Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần, thì quá trình phục hồi không xảy ra và chuyển sang giai đoạn suy kiệt.

    1.3.3. Giai đoạn suy kiệt:

Phản ứng stress trở thành bệnh lí khi tình huống stress hoặc quá bất ngờ, dữ dội, hoặc ngược lại, quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng dàn xếp của chủ thể.

Trong giai đoạn suy kiệt, các biến đổi tâm lí, sinh lí và hành vi của giai đoạn báo động xuất hiện trở lại, hoặc là cấp tính và tạm thời, hoặc là nhẹ hơn nhưng kéo dài. Có thể chia stress bệnh lí thành hai loại: stress bệnh lí cấp tính và stress bệnh lí kéo dài.

2. STRESS VÀ BỆNH CƠ THỂ

2.1. Stress và miễn dịch:

Trong cuộc sống của con người có rất nhiều sự kiện/biến cố vượt quá khả năng giải quyết của cá nhân. Khi đó xuất hiện stress, cụ thể đó là những trạng thái tiêu cực về cảm xúc, nhận thức. Stress làm thay đổi hoạt động của hệ thống miễn dịch và hệ quả của nó là làm thay đổi khả năng nhiễm bệnh theo hướng cá nhân dễ bị nhiễm bệnh hơn.

Một loạt những nghiên cứu của Glaser và CS. vào những năm 1980 cho thấy ảnh hưởng của các kì thi đến chức năng miễn dịch ở các sinh viên y khoa, cụ thể như giảm hoạt động của thực bào, giảm sản xuất tế bào lympho, giảm sản xuất gamma interferon…

Stone và CS. nghiên cứu vai trò tích cực/tiêu cực của các sự kiện đời sống đến miễn dịch nội tiết. Kết quả cho thấy những sự kiện dễ chịu kéo theo tăng tiết IgA (Immunoglobulin A) và ngược lại, những sự kiện khó chịu làm giảm tiết IgA. Việc tăng tiết IgA liên quan đến sự kiện dễ chịu kéo dài đến 2 ngày sau sự kiện. Điều này cho thấy những sự kiện vui vẻ, dễ chịu cũng ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ theo góc độ miễn dịch.

Ngoài ra cũng còn rất nhiều nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lí đến miễn dịch, ví dụ như ở những cư dân sống gần nơi vụ nổ nhà máy điện nguyên tử; những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer.

Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy những người có hệ thần kinh giao cảm hoạt động mạnh (dễ tăng nhịp tim, huyết áp, các hormon giao cảm như epinephrine và norepinephrine) dễ có những thay đổi mạnh trong đáp ứng miễn dịch khi phải đối mặt với các tác nhân gây stress và ngược lại. Tuy nhiên sự liên quan giữa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và miễn dịch vẫn chỉ là sự tương quan mà chưa thể khẳng định được cái nào là nguyên nhân, cái nào là hệ quả.

Cũng có nhiều nghiên cứu đi theo hướng mối quan hệ giữa các yếu tố xã hội với miễn dịch. Những người cô đơn, sống li thân hoặc li dị, đáp ứng miễn dịch kém hơn, hoạt tính của thực bào bị giảm sút.

Sự ức chế hệ thống miễn dịch do stress làm suy giảm khả năng chống chọi của cơ thể đối với những tác nhân gây bệnh hoặc phục hồi sau chấn thương.

Các nhà nghiên cứu cũng đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của stress đối với thực bào- những bạch cầu hạt khổng lồ có chức năng tiêu diệt rất nhanh tế bào virut hoặc ung thư. Bằng các xét nghiệm cận lâm sàng (invitro) người ta cũng đã phát hiện thấy ở những người có stress kéo dài, các thực bào tự nhiễm giảm cả về số lượng và khả năng tiêu hủy tế bào ung thư.

Sự thay đổi trong hệ miễn dịch cũng liên quan đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm (ví dụ như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng tiết các catecholamine). Sự thay đổi các chỉ số của hệ miễn dịch, ví dụ như số lượng bạch cầu và khả năng của chúng tiêu diệt các tế bào khác liên quan đến kích thích tim mạch (đặc biệt là những thay đổi về huyết áp và nhịp tim). Ngược lại, những yếu tố tâm lý như khả năng kiểm soát bản thân, sự hỗ trợ của xã hội và khả năng phản ứng/ đáp ứng của cá nhân cũng có ảnh hưởng đến hệ miễn dịch.

Nhìn chung các tác nhân gây stress bất ngờ hoặc không kiểm soát được hoặc những hoàn cảnh ít có sự trợ giúp xã hội gây ức chế miễn dịch nhiều hơn.

Bệnh truyền nhiễm được xem như là bệnh có tác nhân gây bệnh rõ rệt, ví dụ: viruts, vi khuẩn… Bệnh có khả năng truyền từ người này sang người khác. Cơ chế phòng vệ ban đầu chính là hệ thống miễn dịch. Hệ thống này được huy động nhằm phá hủy, vô hiệu hoá các tác nhân gây bệnh. Do stress làm cho hệ thống miễn dịch có những lúc hoạt động bị yếu đi do đó khả năng chống đỡ của nó (hệ miễn dịch) đối với các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm cũng bị giảm đi. các nghiên cứu thực nghiệm và tự nhiên đều cho thấy stress liên quan đến khả năng dễ bị mắc bệnh truyền nhiễm.

Các nghiên cứu tương quan cũng cho thấy những người có nhiều stress trong cuộc sống là những người dễ bị cảm lạnh.

2.2. Stress và ung thư:

Người ta vẫn chưa xác định được rõ vai trò của hệ miễn dịch trong việc kiểm soát sự đột biến trong quá trình khối u chuyển từ lành tính sang ác tính và sau đó sang di căn. Cũng có tác giả cho rằng có sự liên quan giữa trầm cảm và ung thư song cũng có tác giả phủ định điều đó. Nhìn chung mới chỉ có những cứ liệu cho thấy stress liên quan đến tiến triển của ung thư và có khả năng liên quan đến cả cuộc sống cũng như yếu tố nhạy cảm chung, nguy cơ và chất lượng cuộc sống.

2.3. Stress và bệnh tim:

Có nhiều tác giả đề cập đến sự ảnh hưởng của stress đối với bệnh động mạch vành. Sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra thông qua hệ thần kinh giao cảm. Stress làm tăng tiết epinephrine và norepinephrine dẫn đến tăng hoạt hoá của các thụ thể beta và alpha (Kamarck và Jennings, 1991; Markovitz và Mathews, 1991). Tăng hoạt hoá beta dẫn đến tăng nhịp tim, do đó tim phải co bóp nhiều hơn và huyết áp cũng tăng cao. Tăng hoạt hoá alpha làm co thành mạch (cả động mạch và tĩnh mạch) dẫn đến làm tăng cản trở ngoại vi nói chung và lưu thông máu quay trở lại tĩnh mạch nói chung. Những điều này đều dẫn đến một đích: tăng huyết áp (Guyton, 1991).

Stress cũng góp phần vào xơ vữa mạch máu và những quá trình khác thông qua cơ chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.

Ngoài những liên quan đến động mạch vành, stress tâm lý cũng có thể góp phần làm giảm việc cung cấp oxy cho tim, do đó góp phần hạ thấp ngưỡng thiếu máu cơ tim hoặc thúc đẩy loạn nhịp cấp thông qua hoạt hoá hệ thần kinh thực vật, làm tăng các cơn nhồi máu cơ tim. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những biến cố stress cấp tính, ví dụ như phát biểu ở chỗ đông người, các tình huống gây tức giận. Có thể làm thay đổi điện tim và dẫn đến loạn nhịp hoặc nhồi máu cơ tim. Rối loạn loạn nhịp còn có thể liên quan đến trạng thái tâm lý chủ đạo của cá nhân. Ví dụ: các rối loạn trầm cảm lo âu, nhân cách tip A, rối loạn stress sau nhồi máu.

2.4. Stress và tiểu đường:

Đối với người bị các rối loạn nội tiết, việc kiểm soát hormon là rất cần thiết. Một khi stress làm rối loạn sự kiểm soát đó thì các triệu chứng bệnh càng trở lên tội tệ hơn do mất cân bằng hormon. Bên cạnh việc ảnh hưởng trực tiếp đến nồng độ hormon, stress cũng còn ảnh hưởng đén nhiều những yếu tố nguy cơ liên quan đến khởi phát bệnh, hoặc làm bệnh trầm trọng thêm, ví dụ như ăn kiêng, dùng ma tuý, thực hiện chế độ điều trị.

Một trong những rối loạn nội tiết thần kinh phổ biến là tiểu đường. Có 2 loại tiểu đường: tip I (phụ thuộc insulin) và tip II (không phụ thuộc insulin). Cả 2 tip này đều do lượng đường trong máu tăng cao, đều có các triệu chứng như mắt mờ, mệt mỏi không rõ nguyên nhân hay khát nước và đi tiểu nhiều.

Nguồn năng lượng ban đầu cho các tế bào cơ thể chính là glucoza. Tuy nhiên glucoza được dùng tại các tế bào phải thông qua tác động của một loại hormon đó là insulin.

Stress không trực tiếp gây tiểu đường, tuy nhiên nó có thể làm cho cá nhân dễ bị bệnh hơn. Ví dụ, trong trạng thái stress, các tế bào cơ thể cần nhiều năng lượng hơn. Với tiểu đường tip I, đòi hỏi như vậy có thể vượt quá khả năng của tuyến tuỵ, do vậy bệnh có thể khởi phát sớm hơn. Tương tự, đối với tiểu đường tip II, các hormon stress có thể chi phối đến việc sử dụng insulin. Do đó có thể nhận thấy stress đóng vai trò là một yếu tố nguy cơ đối với khởi phát tiểu đường cũng như có thể ảnh hưởng đến điều trị thông qua sự ảnh hưởng đến kiểm soát glucoza.

Các hành vi liên quan đến stress, ví dụ như ăn uống, sử dụng rượu, hút thuốc lá, ít hoạt động trí tuệ, quên uống thuốc… cũng ảnh hưởng đến việc tự chăm sóc và đây cũng là những nguy cơ gây tăng lượng glucoza trong máu.

Stress có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản trị các triệu chứng bệnh. Với tiểu đường tip I, cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để xử lý lượng glucoza cao trong máu, còn trong tip II, do các tế bào có thể từ chối insulin nên lượng glucoza trong máu vẫn ở mức độ cao. Lượng glucoza cao trong máu dẫn đến nguy cơ nhiễm axit xetonic và hôn mê.

Như vậy có thể thấy stress đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khoẻ của con người. Nó ảnh hưởng đến khởi bệnh cũng như diễn biến và kết thúc (tốt hoặc xấu). Stress chính là khâu quan trọng giữa cơ thể/ cá nhân với môi trường; kích thích con người chống lại hoặc né tránh các tác nhân gây stress.

Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể và thông qua các hệ thống này, stress ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.