Giỏ hàng

THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN Ở TRẺ EM VÀ THANH THIẾU NIÊN.

SỰ GIA TĂNG KÊ TOA THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN
Các thuốc chống loạn thần (CLT) được chấp thuận dùng điều trị tính kích thích ở bệnh nhân rối loạn tự kỷ, TIC và những lời nói bộc phát trong hội chứng Tourette, rối loạn lưỡng cực, và tâm thần phân liệt. Trong lịch sử, đã có sự gia tăng sử dụng thuốc CLT ở cả trẻ em và người lớn. Ngoài việc sử dụng rộng rãi các thuốc này theo các chỉ định được công nhận bởi Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), việc kê toa thuốc CLT đã được thêm vào các bệnh lý khác, ví dụ như rối loạn tăng động – giảm chú ý (ADHD) và các “rối loạn hành vi cư xử” khác.

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Olfson và cs thực hiện nghiên cứu này để kiểm tra giả thuyết việc kê toa thuốc CLT đã mở rộng mức độ nặng hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên so với người lớn. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu 17 năm từ cuộc Khảo sát Chăm sóc Y tế Di động Quốc gia (NAMCS) trong các năm 1993-2009. NAMCS là một mẫu dựa trên việc thăm khám ghi lại các dữ liệu lâm sàng về mỗi cuộc gặp gỡ, bao gồm chẩn đoán và bất cứ thuốc nào được kê toa.
Các toa thuốc được chia làm 5 nhóm:

– Các thuốc chống loạn thần.
– Các chất kích thích và các thuốc khác đối với ADHD
– Các thuốc chống trầm cảm
– Các thuốc chống lo âu (ví dụ, benzodiazepine)/thuốc ngủ; và
– Các thuốc ổn định khí sắc (ví dụ, lithium, carbamazepine, và các thuốc chống động kinh khác).

Các phân tích cũng tập trung vào việc liệu mỗi toa thuốc, mỗi chỉ định được chấp thuận bởi FDA có phù hợp với chẩn đoán lúc khám hay không. Các biến kiểm chứng bao gồm tuổi bệnh nhân, giới tính, chủng tộc, chuyên môn của bác sĩ kê toa (chuyên khoa tâm thần hoặc không), và liệu pháp tâm lý cũng được cung cấp lúc thăm khám. Các bệnh nhân được phân thành nhóm dựa theo tuổi: trẻ em (0-13 tuổi), thanh thiếu niên (14-20 tuổi), và người lớn (³ 20 tuổi). Nếu một thuốc CLT được kê toa, thăm khám được xem như là một “cuộc thăm khám dùng thuốc CLT”.

Trong suốt thời gian nghiên cứu, số lượng cuộc thăm khám dùng thuốc CLT mỗi 100 người/năm gia tăng trong tất cả 3 nhóm tuổi. Ở trẻ em, tần số thăm khám với thuốc CLT gia tăng từ 0.24 cuộc thăm khám mỗi 100 dân số chung/năm lên 1,83, gấp 7 lần so với 3.76 cuộc thăm khám mỗi 100 dân số chung/năm, gia tăng gấp 5 lần. Ở người lớn, tần số cuộc thăm khám với thuốc CLT mỗi 100 dân số chung/năm tăng gấp đôi từ 3.25 lên 6.18.

Trong tất cả số trẻ vị thành niên, sự gia tăng trong việc sử dụng thuốc CLT là hầu như có ý nghĩa ở nam da trắng không phải gốc Tây Ban Nha, những bệnh nhân bảo hiêm tư hoặc tự thanh toán. Một phần nhỏ các cuộc thăm khám tâm thần ở trẻ vị thành niên có chẩn đoán phù hợp với các chỉ định lâm sàng theo FDA, tần số nhiều nhất của các chẩn đoán này là ADHD (17%); rối loạn chống đối (11.3%); và rối loạn hành vi cư xử hoặc rối lạon hành vi không đặc hiệu khác (10.5%).

Các thuốc CLT được kê toa cho trẻ vị thành niên bao gồm aripriprazole (29%), quetiapine (26.8%), risperidone (23%), và olanzapine (9.3%). Các thuốc CLT được kê toa cho trẻ nhỏ là risperidone (42.1%), aripiprazole (28%), quetiapine (19.2%), và olanzapine (4.4%). Chỉ có 6% các cuộc thăm khám dùng thuốc CLT ở trẻ nhỏ đúng với một chỉ định được công nhận bởi FDA, so với 12.9% các cuộc thăm khám dùng thuốc CLT ở trẻ vị thành niên và 28.4% các cuộc thăm khám dùng thuốc CLT ở người trưởng thành.

Olfson và cs kết luận rằng việc kê toa các thuốc CLT tại phòng khám đã gia tăng đối với tất cả các độ tuổi. Mặc dù tỷ lệ tuyệt đối các cuộc thăm khám dùng thuốc CLT ở người trưởng thành trên đầu người vẫn duy trì mức cao nhất trong nhóm 3 tuổi nghiên cứu, nhóm đang mở rộng việc kê toa thuốc CLT nhanh nhất ở trẻ nhỏ (0 – 13 tuổi).

QUAN ĐIỂM
Những phát hiện này sẽ không làm ngạc nhiên những người cung cấp dịch vụ thuộc về nhi khoa, những người xem những trẻ nhỏ bị ADHD và các rối loạn hành vi ảnh hưởng tới chức năng xã hội và chức năng học tập. Có giá trị khi nhấn mạnh rằng hầu hết việc sử dụng thuốc CLT ở trẻ em, đặc biệt là đối với các hành vi cư xử, đặc trưng của chỉ định không chính thức (off-label). Olfson và các cs cho rằng có ít nghiên cứu ủng hộ hiệu quả của việc sử dụng không được phê chuẩn này ở trẻ em.

Các tác giả mong muốn bác sĩ nhi khoa tổng quát đã sử dụng quen thuộc với những thuốc này như thế nào – đặc biệt các liều khởi đầu, cách tăng liều từ từ , và các tác dụng phụ liên quan nên được theo dõi. Trong 527 cuộc thăm khám dùng thuốc CLT những người từ 0 – 18 tuổi, 28% là dành cho những bác sĩ không chuyên khoa tâm thần, là những bác sĩ có xu hướng kê toa thuốc CLT. Nhiều bác sĩ không chuyên khoa tâm thần đã viết các toa thuốc này có thể là các bác sĩ nhi khoa đang thực tập hoặc các bác sĩ nhi khoa, những người đã thực hành chủ yếu về sức khỏe hành vi, vì thế chúng ta nên thận trọng trong việc thừa nhận những toa thuốc của các bác sĩ ít kiến thức về thuốc.

Tuy nhiên, khi các nhà cung cấp thuộc về khoa nhi tổng quát thấy nhiều trẻ em hơn sử dụng các thuốc này, chúng ta phải nhớ rằng những sử dụng thuốc off-label trong nhiều trường hợp còn thiếu bằng chứng hiệu quả.

Trần Thi Thu Phương
Theo William T. Basco, Jr., MD, MS. A troubling tren: antipsychotics in children and teens. Medscape Pediatrics. Viewpoints. 08/28/2012.