Giỏ hàng

NGUY CƠ TỬ VONG VÀ THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN

Bác sĩ Robinson là chuyên gia lĩnh vực phát triển thuốc thế giới của burlington, vermont, cho biết: ông phục vụ như là một chuyên gia cho công ty bristol-myers squibb, cenerx, epix, genaissance, johson and johson, medicinova, pgxhealth, pfizer, và somerset.

Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân tâm thần phân liệt ước tính gấp 2 lần tử vong chung tại cộng đồng và cuộc đời của họ ngắn lại. Tỷ lệ tử vong vượt trội ở bệnh nhân TTPL được quy cho phần lớn do nguyên nhân tự nhiên và không tự nhiên. Tăng tỷ lệ tử vong ở bênh nhân TTPL là những tư liệu tốt, nhưng một số nguyên nhân khác gây tử vong ở loại bệnh này chưa rõ ràng. điều lưu ý này như là quy cho tỷ lệ tử vong cao là do bệnh nội khoa thường liên quan với các rối loạn phân liệt và trong một số trường hợpcó thể do tác dụng phụ khi điều trị bằng thuốc chống loạn thần.

 TÂM THẦN PHÂN LIỆT VÀ NGUY CƠ TỰ SÁT

Gần 1/3 số bệnh nhân TTPL tử vong được quy cho tự sát, với thêm 12% do đột tử. một số nghiên cứu lớn cho thấy rõ nguy cơ tự sát tăng ở bệnh nhân TTPL. kết quả của một số nghiên cứu meta thời gian dài trên điễn biến của các rối loạn tâm thần ước tính nguy cơ tự sát suốt đời của bệnh tâm thần phân liệt là 5%. bệnh nhân nam giới, tuổi trẻ là những nguy cơ cao tự sát, đặc biệt trong những tháng đầu sau khi được chẩn đoán bệnh

TỬ VONG TĂNG DO CÁC NGUYÊN NHÂN TỰ NHIÊN

dữ liệu về tử vong tại Mỹ cho thấy bệnh nhân TTPL có tỷ lệ tử vong  do các nguyên nhân tự nhiên cao hơn tử vong chung ở cộng đồng. bệnh tim, hô hấp và các rối loạn chuyển hoá ở bệnh nhân TTPL gấp 2 –3 lần so với cộng đồng và được quy cho tăng tỷ lệ tử vong do các nguyên nhân tự nhiên. lối sống không tốt, dùng thuốc quá nhiều,chăm sóc sức khoẻ chưa toàn diện, là những yếu tố liên quan được quy cho là những nguy cơ tử vong cao hơn. biện pháp phòng ngừa làm giảm tử vong quan trọng ở bệnh nhân TTPL là điều trị tích cực các triệu chứng cảm xúc, cải thiện chung việc tuân chủ điều trị, và chăm sóc cải thiện lối sống

THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN VÀ TÁC DỤNG LÊN TIM

Thêm nữa, di chứng của của thuốc liên quan đến bệnh TTPL, thuốc chống loạn thần liên quan như là yếu tố góp phần tăng nguy cơ. Có một số bằng chứng cho thấy thuốc CLT có lẽ gây lên các đột tử do tim hay đột quỵ. một nghiên cứu quan sát kiểm soát trường hợp trong thực hành lâm sàng ở mạng lưới 150 thầy thuốc đa khoa trong 6 năm(1995-2001) cho thấy 3 nhóm tăng đột tử do tim liên quan đến thuốc CLT trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu. tỷ lệ đột tử do tim cao nhất là ở bệnh nhân điều trị với butyrophenone, một loại thuốc CLT làm kéo dài khoảng QT và đặc biệt là thioridazine. Tăng thêm 9 đột tử do tim khi so sánh với nhóm kiểm soát là rõ ràng mặc dù với liều thấp thuốc CLT. mặc dù ở các nghiên cứu này phần lớn bệnh nhận nhận thuốc CLT cổ điển, tác dụng hại cho tim liên quan đến thuốc CLT không điển hình sử dụng cũng được chú ý. thuốc CLT không điển hình được xác định các yếu tố nguy cơ cho phát triển bệnh tiểu đường và các hội chứng chuyển hoá. Các tác dụng phụ này qua thoời gian ảnh hưởng gián tiếp đến  tim và tăng thêm tỷ lệ tử vong. tiểu đường và rối loạn lipide máu từ thuốc CTL không điển hình đặc biệt là clozapin và olanzapin, chúng có thể gây mỡ máu, tắc nghẽn động mạch và các tổn thương tim khác

THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN Ở BỆNH NHÂN LỚN TUỔi

Thuốc này làm gia tăng tỷ lệ bệnh mạch máu não thậm chí trong các thử nghiệm bệnh nhân sa sút trí tuệ năm 2001 và 2004 với olanzapine đã thúc đẩy phán quyết của uỷ ban an toàn thuốc Anh quốc cảnh báo các nhà lâm sàng về nguy cơ tiềm tàng của đột quỵ với 2 loại thuốc này. Tháng 4/2005 FDA tiến hành phân tích me ta 17 thử nghiệm có kiểm soát dùng aripirazole, olanzapine, quetiapine và risperidol gồm 5000 bệnh nhân sa sút trí tuệ liên quan đến các triệu chứng loạn thần. gần như tất cả các thử nghiêm lâm sàng coá phân tích của FDA thể hiện tại kết quả nhỏ nhất nhưng tăng tử vong có ý nghĩa so sánh với dủng giả dược. đánh giá này này đề nghị rằng mức hiệu quả và không không do xu hướng giới thiệu bởi dữ liệu từ một vài thử nghiệm lâm sàng. FDA phân tích thấy rằng có khảng 50% đột quỵ có bằng chứng rõ với thuốc CLT không điển hình trong các thử nghiệm bệnh nhân sa sút trí tuệ.điều này dẫn đến đòi hỏi “ hộp đen ”  cảnh báo cho tất cả các trường hợp dùng thuốc CLT không điển hình. Xa hơn nữa FDA khuyến cáo các thấy thuốc rằng các thuốc CLT không điển hình không được dùng cho các bệnh nhân có dấu hiệu sa sút trí tuệ.  tiếp sau đó kết quả tương tự cũng được báo cáo bởi nhóm điều tra thứ 2, điều này dương như biểu lộ sự phát hiện.

Câu hỏi còn lại liệu dữ liệu đột quỵ này liên quan đến sử dụng thuốc CLT không điển hình có tin cậy không. Không có phương pháp đánh giá cho sự phát hiện bất ngờ nào được mô tả rõ ràng. mục đích của giả thuyết cho rằng tăng rõ ràng nguy cơ đột quỵ bao gồm tăng ngưng kết tiểu cầu do tăng mức prolactine; ức chế tác dụng serotonin của thuốc CLT không điển hình; hạ huyết áp với bệnh mạch  máu nhỏ; và tăng đông máu gây lên bởi tác dụng chuyển hoá có hại của thuốc này trong triglycerides, cholesterol, leptin và glucose. một nghiên cứu phân tích dữ liệu chăm sóc sức khoẻ của bệnh nhân lần đầu dùng thuốc CLT cổ điển và không điển hình (22 000 bệnh nhân, tuổi ³ 65) thấy 37% tử vong cao hơn với thuốc cổ điển so với thuốc không điển hình. điều bất ngờ đến kinh ngạc là >25% người được chăm sóc y tế ở nhà dưỡng lão thuộc nhà nước quản lý được dùng thuốc CLT. Tuy nhiên, không phải tất cả các nghiên cứu bệnh nhân nội trú đột quỵ bao gồm bệnh nhân sa sút trí tuệ được xác định liên quan đến di chứng thần kinh và điều trị với thuốc CLT điển hình và không điển hình. FDA phân tích thì xác định cho bệnh nhân lớn tuổi bị sa sút trí tuệ trong thử nghiệm lâm sàng và chỉ thích hợp với thuốc CLT không điển hình. Do đó dữ liệu cuối cùng cần thiết nhiều hơn để đánh giá các yếu tố có lợi của thuốc CLT cho bệnh nhân lớn tuổi hơn. thông tin có giá trị hiện nay thì phong phú từ kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân trẻ hơn hay già hơn bị sa sút trí tuệ.

NGUY CƠ TỬ VONG CỦA THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN KHÔNG ĐIỂN HÌNH Ở NGƯỜi TRẺ HƠN

Một nghiên cứu gần đây xem xét tử vong ở bệnh nhân TTPL trong khi dùng thuốc chống loạn thần không điển hình trong các thử nghiêm lâm sàng được công nhận ban đầu. dữ liệu nghiên cứu này nhận được từ tài liệu tóm tắt của FDA về tử vong trong điều trị với thuốc chống loạn thần không điển hình trong thời kỳ 1982-2002. nghiên cứu khảo sát trên 12000 bệnh nhân nhận thuốc chống loạn thần không điển hình(nghiên cứu), 2900 bệnh nhân nhận thuốc chống loạn thần cổ điển, và 1200 bệnh nhân dùng gỉa dược. Tỷ lệ tử vong trong nhiều năm là 2,055/100 000 cho thuốc chống loạn thần không điển hình so với 8,081/100 000 cho giả dược(p<0,05). Tỷ lệ tử vong khi dùng giả dược cao hơn có ý nghĩa so với khi dùng thuốc chống loạn thần không điển hình hay cổ điển. Tử vong do tự sát chiếm tỷ lệ 28% khi dùng thuốc chống loạn thần không điển hình, tiếp theo là do tim(18%) và bệnh hô hấp(17%). Dữ liệu hoàn chỉnh thì chưa đầy đủ để đánh giá nguyên nhân tử vong của 2 cách điều trị khác. Tỷ lệ tử vong chung cho mỗi một trong 3 nhóm, tuy nhiên tỷ lệ tử vong chung trong cộng đồng (850/100 000), kết quả phù hợp với phát hiện nguy cơ tử vong cao hơn ở bệnh nhân TTPL, như các bàn luận trên .

KẾT LUẬN

Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân TTPL  cao hơn tỷ lệ chung trong cộng đồng. xác định tử vong do cả nguy cơ tự sát có ý nghĩa và có khả năng do nguyên nhân tự nhiên.  thuốc chống loạn thần bị nghi ngờ là nguyên nhân tăng tử vong và đột quỵ ở những bệnh nhân lớn tuổi sa sút trí tuệ, điều này dẫn đến FDA cảnh báo bao gồm hiện cho là của thuốc chống loạn thần không điển hình. Chưa có quan điểm cuối cùng cho sự ủng hộ các tác dụng có hại của thuốc chống loạn thần ở bệnh nhân lớn tuổi bị sa sút trí tuệ được xác định. những nghiên cứu gần đây nghi ngờ rằng có nguy cơ tử vong cao tương tự khi sử dụng thuốc chống loạn thần ở bệnh nhân cổ điển ở bệnh nhân sa sút trí tuệ. Phân tích dữ liệu của các thử nghiệm lâm sàng ban đầu cho thấy thuốc chống loạn thần không điển hình trong TTPL thấy nguy cơ tử vong thấp hơn khi dùng giả dược, mặc dù tất cả các nhóm đều có nguy cơ tử vong cao hơn tỷ lệ chung ở cộng đồng.

Đăng kí khám TẠI ĐÂY