Giỏ hàng

RỐI LOẠN TRÍ  NHỚ

1. Khái niệm tâm lý học về trí nhớ.

Trí nhớ là một quá trình tâm lý, phản ánh những sự vật, hiện tượng đã từng tác động vào con người. Kết quả của quá trình nhớ là những biểu tượng của nhận thức, kinh nghiệm, cảm xúc, thái độ... về sự vật hiện tượng con người lưu giữ lại. Dưới góc độ hoạt động tâm lý, cấu trúc của hoạt động trí  nhớ cũng bao gồm các động cơ, mục đích, phương tiện, các hành động, thao tác... Thực chất của trí nhớ là sự ghi lại, giữ lại và làm xuất hiện lại những gì cá nhân thu được trong hoạt động sống.

 Trong lâm sàng, người ta quan tâm đến hiệu quả của các quá trình ghi nhớ (ghi nhớ có chủ định, không chủ định, ghi nhớ có ý nghĩa, ghi nhớ máy móc, ghi nhớ bằng mắt, bằng tai...); các quá trình giữ gìn, củng cố, để lưu giữ các dấu vết; các quá trình tái hiện (nhận lại, nhớ lại, hồi tưởng lại sự vật, hiện tượng).

Người ta còn quan tâm đến các thuộc tính, đến chất lượng (độ tin cậy, độ chính xác, độ bền vững...) của trí nhớ. 

2. Những rối loạn về trí nhớ.

2.1. Giảm nhớ và tăng nhớ:

Đây là sự thay đổi bệnh lý hiệu quả của toàn bộ hoạt động trí nhớ, hoặc của từng quá trình ghi nhớ, giữ gìn, tái hiện.

¨ Giảm nhớ (hypomnesia):

Hay gặp giảm hiệu quả của quá trình nhớ và quá trình lưu giữ tài liệu trong quá trình lão hoá còn trong tổn thương não và trong những trạng thái đặc biệt, như khi sợ hãi, khi xúc động... thsf hay gặp giảm hiệu quả quá trình tái hiện.

 ¨ Tăng nhớ (hypermnesia):

Hiệu quả nhớ của người bệnh tăng một cách bệnh lý, cao hơn hẳn so với những người khác. Đa số các bệnh nhân này chỉ nhớ đến một loại kích thích nhất định, liên quan đến những ký ức sâu sắc, đến điều kiện nghề nghiệp, mà họ không thể có cách gì để không nhớ đến kích thích đó.

2.2. Mất nhớ (amnesia):

Trong những thời điểm, hoàn cảnh nhất định, người bệnh không thể nhớ được cái gì đã xảy ra trong quá khứ. Trong lâm sàng, thường gặp một số loại mất nhớ sau:

¨ Quên ngược chiều (retrograde amnesia):

Người bệnh không thể nhớ được các sự kiện đã diễn ra trước khi xẩy ra sự cố. Loại mất nhớ này thường gặp trong chấn thương sọ não, trong xơ vữa mạch não.

¨ Quên thuận chiều (anterograde amnesia):

Sau chấn thương sọ não, bệnh nhân bị hôn mê; khi tỉnh thì bệnh nhân không thể nhớ được điều gì đã xẩy ra từ sau khi tai nạn đến lúc tỉnh.

¨ Quên hệ thống:

 Người bệnh không thể nhớ được một sự vật, một đối tượng, một chi tiết nào đó liên quan đến sự trọn vẹn, đến sự liên tục của sự kiện cần nhớ.

¨ Cơn mất nhớ:

+ Sự mất nhớ xẩy ra tức khắc, thông tin cần nhớ nào đó (không phải là tất cả các thông tin nhớ) bị tan rã hoàn toàn. Loại mất nhớ này thường xẩy ra chốc lát và sau đó trí nhớ nhanh chóng được hồi phục.

+ Nguyên nhân của mất nhớ rất nhiều và phức tạp, trong đó có nguyên nhân tâm lý bệnh sinh (nhất là trong mất nhớ hệ thống).

+ Trong thực tế, thường gặp trường hợp: khi ở trạng thái có ý thức thì bệnh nhân không tái hiện được, song khi ở trạng thái vô thức thì người bệnh nhớ lại.

2.3. Loạn nhớ (dysmnesia):

 Trong rối loạn nhớ, không có sự gián đoạn các thông tin đưa vào, không có sự suy giảm khả năng nhớ, mà là sự lệch lạc về chất lượng các "dấu ấn" được tạo ra, là sự thay đổi bệnh lý về chất lượng, thuộc tính của quá trình nhớ.

Người ta thường gặp các loại rối loạn nhớ sau:

¨ Nhớ sai (paramnesia):

+ Người bệnh tái hiện các sự kiện không chính xác về thời gian và không gian, nhớ sai trình tự các sự kiện, hoặc đem các sự kiện cũ xếp vào lô các sự kiện vừa xẩy ra. Trong giới hạn nhất định, bệnh nhân vẫn tái hiện được toàn bộ các sự kiện, không thiếu một chi tiết nào, song về trình tự các sự kiện, về thời gian, không gian diễn ra các sự kiện thì họ nhớ sai. Các dạng chính của nhớ sai gồm:

- Tái hiện các ký ức không chính xác, nhưng về trí nhớ cảm xúc cũng đúng như khi có ký ức đó (ekmnesia)

- Nhớ sai hợp nhất và nhớ sai phân đôi: Người bệnh chia ký ức thành 2 phần theo thời gian hoặc theo không gian. Khi tái hiện nó, họ nhập hai phần này vào một đối tượng khác hoặc họ gắn hai phần đó vào hai đối tượng khác nhau.

+ Nhớ không chính xác về thời gian còn biểu hiện dưới dạng: người bệnh có ảo tưởng từng gặp gỡ, từng trải nghiệm. Họ có cảm nhận mình chưa gặp đối tượng này, hoặc đã gặp, song vẫn cho rằng những cản giác về đối tượng của họ là mới lạ. Hay ngược lại, tuy là gặp đối tượng quen biết, song người bệnh vẫn cảm nhận rằng chưa hề gặp đối tượng này bao giờ.

¨ Nhớ dị biệt (alomnesia):

+ Là tổng hợp tất cả các hiện tượng ảo tưởng nhớ. Bằng những cảm giác sai, tri giác nhầm, người bệnh tạo ra các sự kiện nhớ có thật, song lại đưa thêm vào chúng những ý nghĩa, những diễn đạt khác, trái ngược với thực tế.

+ Đôi khi còn gọi đó là hiện tượng nhớ giả (pseudomnesia).

Những ví dụ  về hiện tượng này như:

- Nhớ vơ vào mình (kryptomnesia): người bệnh đinh ninh rằng, chính họ đã đặt ra giai điệu quen thuộc này và tin chắc là trước đây chưa ở đâu, chưa bao giờ được nghe một giai điệu như thế. Trường hợp này cũng giống như người "ăn cắp". Nhưng người bệnh làm việc này một cách không chủ định, và khác với người "đánh cắp" thật ở chỗ họ không muốn có sự phê phán của người khác.

- Nhận lại giả: là sự thiếu sót trong nhận biết, nhớ lại sự vật, hiện tượng. Ảo tưởng nhớ này thể hiện ở chỗ người ta có một kỷ niệm cụ thể được ghi vào trong trí nhớ, như một sự "đợi chờ" và sự "đợi chờ" này đã làm cho nó mai mốt dần so với sự mong mỏi. Tự nhiên, kỷ niệm từ quá khứ xuất hiện, song không được hiện tại chấp nhận, bởi vì sự kiện xẩy ra đã lâu, nội dung của nó không còn chính xác và phù hợp nữa.

- Nhớ giả (pseudo-reminiscence): là hiện tượng người bệnh nhớ về ký ức của chính mình (mà ký ức này tự nó không đầy đủ), song các quá khứ được "cày xới" này lại trở lên khác lạ đối với người bệnh.

¨ Nhớ bịa (confabulation):

+ Đây là một triệu chứng phức tạp: người bệnh bổ sung vào trí nhớ của mình những nội dung không đúng, rất khác lạ. Người bệnh đã bịa ra nhưng chưa đúng, là sự bịa đặt mang ý nghĩa của hành động tự nhiên, bình thường.

+ Khởi đầu trong nhớ bịa là người bệnh đưa ra những nội dung giả mạo một cách rất tùy tiện.

+ Nhớ bịa rất đa dạng và sinh động, hơn cả chuyện hoang đường và thường nảy sinh khi não bị tổn thương lớn hoặc trong rối loạn tâm thần sâu sắc.

+ Đặc điểm của nhớ bịa là người bệnh không duy trì lâu những cái mà họ khẳng định và nếu có sự không thống nhất thì cứ 1-2 lần lại thay đổi một nội dung khác, cũng giống như các chuyện hoang đường.

¨ Nhớ ảo (hallucination mnesia):

+ Cũng tương tự như ảo giác, nhớ ảo là những ký ức không có các tiền đề thực tiễn. Những người không chuyên môn nói đây là sự bịa đặt từ đầu đến cuối.

+ Cũng như trong ảo giác, người bệnh tự khẳng định là những sự kiện mà họ nhớ đó (nhớ ảo) đúng như sự mô tả vốn có của nó. Ảo nhớ thường xuất hiện như một sự bổ sung của hoang tưởng. Ở người bệnh bị hoang tưởng thể paranoid, ám ảnh đã giúp tạo nên nhớ ảo, mà trong đó một ký ức nổi lên là một cá nhân nào đó đối xử với họ như kẻ thù.

+ Điều này là trái ngược, như đã dự báo, người bệnh không tạo ra hoang tưởng, mà họ có ảo giác về kẻ thù chống lại họ, song ngược lại, hoang tưởng là cái thứ nhất, còn ảo giác chỉ là cái thứ hai.

¨ Viễn tưởng giả (pseudo- fantastic):

+ Ở đây không đưa ra vấn đề bản chất của rối loạn trí nhớ, mà chỉ nói tới sự tái hiện có chủ định những dấu vết không đúng, những dấu vết giả dối, bịa đặt.

+ Nhất là ở trẻ em, đôi khi người ta thấy chúng kể về những tai nạn khó tin như: đổ bể, đánh nhau, thương tích... Sự sợ hãi của cha mẹ càng tăng thêm khi thấy trẻ nói những điều đó một cách tự nhiên, không e ngại, "không chớp mắt". Sự giả dối này có thể được xác định bằng cách xem trẻ có còn biết sợ hãi hay không.

+ Không thể nói ngay rằng chúng là hoàn toàn bịa ra, cái gì cũng được tạo ra cả, song ở người bệnh thì họ luôn luôn tin rằng những điều đơm đặt, thêu dệt của mình vẫn nằm trong giới hạn cho phép.

+ Sự giả dối này hay gặp trong rối loạn phân ly và trong các rối loạn khác.

+ Rối loạn trí nhớ gặp cả trong bình thường cũng như trong bệnh lý, song nó luôn luôn có ý nghĩa lớn lao trong tổn thương não.

+ Trong loạn thần nội sinh, khi thấy có rối loạn trí nhớ là có giá trị rất lớn.

+ Rối loạn bệnh lý trí nhớ có liên quan chặt chẽ với các hiện tượng bệnh lý tâm thần khác.